| Thứ Bảy, 08/08/2020
 
 Ảnh minh họa - Internet
  Lạ thế, biết con gái con rể ở Thủ đô không thiếu gì cách làm mát mà  mạ vẫn gửi ra chiếc quạt mo cau. Mo cau này rụng xuống trên đất đỏ bazan  Cùa, thung lũng nổi tiếng gần xa với tiêu nồng, mít ngọt, chè chát.  Những hương vị cây trái đầy vơi ngấm vào tôi trong suốt hai mươi năm gắn  bó cùng Quảng Trị.   Hai mươi năm, đời lính lăn lóc với gió lào thổi như bão khan, hừng  hực hơi nóng mặt trời. Cái thứ gió gần nửa năm trời hào phóng tràn xuống  từ trập trùng Trường Sơn, khô rong róc, nóng hầm hập, hút cạn mồ hôi  người. Gò lưng đạp xe ngược đường Chín lên Cam Lộ, vô Cùa chiều thứ bảy  thăm vợ con như một ám ảnh khó phai nhòa đối với tôi. Mùa mưa thì nước  từ trời đổ xuống tầm tã hết ngày này sang ngày khác, dân bảo mưa “thúi  đất, thúi đai” chẳng ngoa chút nào. Củ sắn trên đồi, trong vườn ngâm  mưa, từ màu trắng chuyển sang vàng nâu, thoang thoảng mùi chua. Nhà vợ  chồng tôi ở Cùa, mái tranh vách đất, mưa tạt lở trước lở sau, sân đóng  rêu xanh rờn trơn nhẫy. Cứ nơm nớp nỗi lo con trẻ hấp tấp chạy bị trượt  ngã.  Khộ! Dân Quảng Trị không phát âm đúng từ khổ. Chẳng sao cả, khộ cũng  được, không dấu hỏi thì dấu nặng, có can chi mô hè. Từ khộ này, chắc  chắn có liên quan tới mòn quà của mạ gửi từ Quảng Trị ra cho tôi rồi.  Chiếc quạt mo cau. Tôi cầm món quà Quảng Trị trên tay, cảm thấy như vừa  nhẹ vừa nặng, vừa xa vừa gần, vừa hở vừa kín. Phất phất quạt, từng cơn  gió nhỏ nhoi phả mát lên mặt, lùa mát vào lòng. Cơn gió mo cau như hồi  niệm lùa về, cái thời ai cũng khộ, cơm không đủ ăn, áo chẳng đủ mặc, lấy  đâu ra quạt máy, phòng điều hòa nhiệt độ như bây giờ.   Mình khộ một thì mạ khộ mười. Lớp người như mạ phải chịu hai cuộc  chiến tranh bi tráng không kể xiết. Chín năm chống giặc Pháp. Hai mươi  năm chống giặc Mỹ. Thuở chín năm, Quảng Trị có chiến khu Cùa, chiến khu  Ba Lòng…"Đò em lên xuống Ba Lòng / Đưa người cán bộ qua vùng chiến  khu"...Chắc nhiều người biết đấy là thơ Lương An, bài này đã được đưa  vào sách giáo khoa, thời tôi đi học còn đọc thuộc lòng. May mà thơ ca  còn lặng thầm lưu giữ lại cho đời sau những đêm mưa mù mịt khó chèo thuở  chín năm ấy, khi mạ còn là cô gái chưa chồng đã biết bới cơm cho cán bộ  bí mật nằm rừng, cận kề dấu tích căn cứ Tân Sở được xây đắp nên từ thời  vua Hàm Nghi trước trào Cần Vương. Lòng yêu nước không của riêng ai,  không phân chia đẳng cấp, tầng lớp. Giá trị lòng yêu Tổ quốc của một ông  vua ghét giặc xâm lăng và mạ, một thôn nữ sinh ra giữa thung lũng Cùa,  mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vốn liếng văn hóa chỉ có dăm ba chữ bình dân học  vụ là như nhau, hoàn toàn giống nhau. Thời chống Mỹ, Quảng Trị luôn được  nhắc đến với nỗi đau chia cắt non sông mang tên cầu Hiền Lương sông Bến  Hải. Tại sao thời đoạn "Ngày Bắc đêm Nam" ấy lại xuất hiện nhiều ca  khúc da diết và thẳm sâu đến vậy. Một "Câu hò bên bờ Hiền Lương", một  "Xa khơi"... lấy cảm hứng từ sông Bến Hải, biển Cửa Tùng đã vượt qua hết  thảy những mục đích tuyên truyền chính trị của một thời để tình người  thao thiết lắng đọng đến bao đời, không hề cỗi cằn, nhàm chán. Hèn chi,  không ít văn nghệ sĩ khi nhắc tới Quảng Trị lòng rưng rưng bổi hổi bồi  hồi như nói về nơi chôn rau cắt rốn của mình. Sau câu thơ quá đỗi lung  linh "Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị" của nhà thơ Tế Hanh ta lại  biết tới bài "Đêm Quảng Trị" đầy chất hùng ca trữ tình của nhà thơ Phạm  Ngọc Cảnh: "Ơi ngọn núi vắt con đường nho nhỏ / Lối mòn xưa đưa cán bộ  lên Cùa / Gạo Triệu-Hải đò nằm ngang sóng vỗ / Vượt Trấm rồi rộn rã mái  chèo khua"… Nhà thơ Anh Ngọc đã mấy lần nói với tôi rằng: “Mình mong một  ngày được trở về Quảng Trị”. Đúng lắm, nhà thơ ạ, vùng đất thời bom đạn  tơi bời đã cho anh phôi liệu viết nên thi phẩm "Cây xấu hổ"; "Mưa trên  mái tôn"…đâu dễ lãng quên được: "Con nhìn ra bốn phía mưa sa / Căn nhà  nhỏ gió xô về tơi tả / Những mái tôn trong mưa tuôn trắng xóa / Mênh  mông không một màu xanh…" Đấy là cơn mưa ở Cam Lộ những ngày mới giải  phóng năm 1972. Tiếng mưa sụt sùi như tiếng nước mắt nghẹn ngào xa xót  của mạ trên vùng quê vừa mới hôm qua sống trong kìm kẹp của địch. Còn có  những cơn mưa mặn đắng hơn trong cái năm Nhâm Tý khốc liệt này trên một  vùng đất khác không xa Cam Lộ mấy: Thành cổ Quảng Trị. Đã có nhiều  trang viết về 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa ấy.  Nhưng, có lẽ chưa ai đi hết chiều sâu thăm thẳm của “81 trang sách”  Thành cổ 1972 đầm đìa máu và mồ hôi: "Rêu cũng đỏ như đã từng là máu /  cỏ xanh hơn nơi vạn chiến binh nằm / Ù ù gió hay hồn lính trận / thổi  trăm năm không qua được mùa hè…" Tôi đã cúi đầu trước hàng nghìn linh  hồn liệt sĩ ở Thành cổ Quảng Trị với những câu thơ nhức buốt của mình  như thế. Cũng như đã từng nghe và thấy "Mười nghìn Trường Sơn trong một  Trường Sơn" ở thượng nguồn sông Bến Hải...  Chao ôi, cái khộ của Quảng Trị đã trở thành niềm thương nỗi nhớ của  cả nước. Có lẽ thế. Ai nhắc đến vùng đất Quảng Trị với các địa danh Vịnh  Mốc, Cồn Cỏ, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Thành cổ, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh,  Cửa Việt, Đường Chín… mà chẳng chạnh lòng nghĩ tới số phận dân tộc mình,  hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, giặc này vừa cuốn  gói thì thù khác đã thế chân, dấu giày viễn chinh chồng lấn lên nhau,  chẳng khác gì bão nối bão, lũ tiếp lũ hành hạ dân mình. Cứ miên man như  đang cùng mạ, cùng Quảng Trị đi về dĩ vãng chưa xa ngái mấy. Dĩ vãng  niềm tự hào cao rộng như núi như biển và nỗi đau cũng mang tầm kích như  thế. Ta đã nói nhiều tới điều này trong thời hậu chiến những hình như  chưa đủ, chưa sâu. Chưa đi hết cái thấm thía chất náu trong trầm tích  Quảng Trị. Kỳ tích và mất mát của một dải đất mỏng, neo bám vào Trường  Sơn và trông ra biển cả bao la. Tôi nghĩ, Cửa Việt có một nội hàm bát  ngát hơn là địa danh chỉ nơi đổ ra đại dương của một con sông không lớn  của miền Trung.   Chiếc quạt mo cau, khộ! Một sự nhắc nhở nhẹ nhàng của mạ chăng? Ra  chốn phồn hoa đô hội, lại có chút danh tiếng, biết đâu…Con người vốn dĩ  hay quên, chắc mạ thầm lo thế. Mạ, đi đâu, ở đâu con vẫn mang hình bóng  Quảng Trị trong lòng như mang câu ca dao xứ sở gió lào nắng lửa: "Cây  cao bóng cả chẳng ngồi / Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim"...Tôi  ngắm nghía chiếc mo cau của mạ, lòng bâng khuâng thấy Quảng Trị rất gần;  tháng năm xưa hiện về mồn một với những thương mến chân thành mà vùng  đất ấy đã dành cho tôi. Tôi trân trọng và yêu quý điều đó. Chiếc quạt mo  cau mặc nhiên trở thành biểu tượng tình cảm mạ dành cho tôi. Đơn sơ mà  lắng đọng bao nhiêu ý nghĩa tốt đẹp, trong sáng của cuộc sống hướng  thiện. Mới hay, giá trị của quà tặng đâu phải phụ thuộc vào sự đắt rẻ,  nhiều ít của hiện vật mà nó mặc định bởi tấm lòng người trao. Tôi đặt  chiếc quạt mo cau ở bàn làm việc để được gần mạ, gần Quảng Trị hơn, để  cho lúc nào cũng được nhận về yêu thương của vùng đất khắc bạc mà thiện  lành ấy. |